Giải đáp thắc mắc của một số chủ doanh nghiệp (DN) và Công đoàn (CĐ) cơ sở về TƯLĐTT, ông Lê Đình Quảng, Phó Ban Quan hệ Lao Động Tổng LĐLĐ Việt Nam cho biết, Điều 44 – Bộ Luật lao động năm 2012 quy định TƯLĐTT là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và NSDLĐ về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động. Chủ thể ký kết là tập thể lao động (ban chấp hành CĐ cơ sở hoặc tổ chức CĐ lâm thời) và NSDLĐ. Chủ thể đại diện tập thể lao động tham gia kí kết TƯLĐTT là chủ tịch Ban chấp hành CĐ cơ sở hoặc người có giấy uỷ quyền của Ban chấp hành CĐ. Đại diện ký kết của bên NSDLĐ là giám đốc DN hoặc người được uỷ quyền theo điều lệ tổ chức DN hoặc có giấy uỷ quyền của giám đốc DN.
Căn cứ điều 46 – Bộ Luật lao động năm 2012 thì nội dung của TƯLĐTT gồm: Cam kết về việc làm và bảo đảm việc làm; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương; định mức lao động; An toàn lao động, vệ sinh lao động và BHXHđối với người lao động. Lưu ý là các thỏa thuận trong TƯLĐTT không được trái với các quy định của Bộ Luật lao động.
Thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể thực chất sẽ tạo động lực làm việc cho người lao động Ảnh KHÁNH AN
Khoản 2 điều 47 – Bộ Luật lao động năm 2012 quy định: "TƯLĐTT có hiệu lực kể từ ngày được cơ quan lao động (Sở LĐ-TB-XH) cấp tỉnh đăng ký. Chậm nhất 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản TƯLĐTT, cơ quan lao động cấp tỉnh phải thông báo việc đăng ký. Nếu hết thời hạn trên mà không có thông báo thì TƯLĐTT đương nhiên có hiệu lực. TƯLĐTT được ký kết với thời hạn từ 01 năm đến 03 năm. Đối với DN lần đầu tiên ký kết TƯLĐTT, thì có thể ký kết với thời hạn dưới một năm. Chỉ sau ba tháng thực hiện, kể từ ngày có hiệu lực đối với TƯLĐTT thời hạn dưới một năm và sau sáu tháng đối với TƯLĐTT thời hạn từ 01 năm đến 03 năm, các bên mới có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung TƯLĐTT. Việc sửa đổi, bổ sung được tiến hành theo trình tự như ký kết TƯLĐTT."
TƯLĐTT bị coi là vô hiệu từng phần khi một hoặc một số điều khoản trong TƯLĐTT chưa được cơ quan lao động cấp tỉnh chấp thuận, các điều khoản khác đã được đăng ký vẫn có hiệu lực thi hành. TƯLĐTT thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị coi là vô hiệu toàn bộ: Toàn bộ nội dung thoả ước trái pháp luật; Người ký kết TƯLĐTT không đúng thẩm quyền; Không tiến hành theo đúng trình tự ký kết; Không đăng ký ở cơ quan lao động cấp tỉnh. Việc tuyên bố huỷ bỏ các TƯLĐTT bị coi là vô hiệu thuộc thẩm quyền của cơ quan lao động cấp tỉnh.
Bình luận (0)